Search

Bài 1151: Chuyển Hóa Người Thân – Thất Bảo #1 – Mu A Mu Sa

Bảo Phước đánh máy

Mô Phật! Bảo Thành kính chào quý Thầy, quý Sư Cô cùng các bạn đồng tu trên kênh YouTube Thất Bảo Huyền Môn và kênh Facebook Chua Xa Loi!

Đã tới giờ chúng ta đồng tu, mời các bạn quy ngưỡng về với ba ngôi Tam Bảo để chúng ta bắt đầu.

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật!

Mu A Mu Sa.

Con nguyện mười phương Chư Phật ban rải tha lực Phật điển đại Từ đại Bi xuống muôn loài chúng sanh.

Bảo Thành kính chào tất cả các bạn, chúng ta đang đồng tu trên kênh YouTube Thất Bảo Huyền Môn hoặc các bạn mới lướt qua YouTube này, chúng ta gặp gỡ nhau!

Các bạn thân mến! Kênh YouTube Thất Bảo Huyền Môn là kênh để chúng ta gặp nhau trên mạng đồng tu Thiền Mật. Thiền Mật song tu, Thất Bảo Huyền Môn là pháp môn giúp cho chúng ta phát huy được tự lực cầu Đạo Giác Ngộ. Tự lực rất quan trọng. Nếu các bạn không có sự tự lực, các bạn khó có thể tu được. Nhưng khi các bạn đã hiểu được điều đó và tập trung tinh thần tự lực, tự sức mình đi tìm sự giác ngộ qua giáo lý của Phật thì Thiền Mật song tu sẽ giúp cho các bạn có được tha lực Phật điển, năng lượng Từ Bi để từ đó giữa tự lực cầu Đạo Giác Ngộ và tha lực Phật điển sẽ giúp cho chúng ta soi rõ tâm và thân, hiểu rõ về mình và sẽ tìm ra được những điều kỳ diệu đang tàng ẩn trong cuộc đời của chúng ta.

Giờ đây, chúng ta nhớ rằng, khi hít vào qua hơi thở của Thiền Mật, là hơi thở đi vào từ mũi đi xuống dưới phổi, chậm chậm đi xuống dưới Đan Điền Khí Hải, khi đó gọi là hơi thở Chánh Niệm. Các bạn dùng tâm thấy được hơi thở đi xuống và biết bụng của mình là Đan Điền Khí Hải phình ra. Khi các bạn thở ra, các bạn thở từ từ, thấy thở và cũng biết hóp bụng vào từ từ, đồng thời mọi người chúng ta cùng trì mật chú vi diệu âm Mu A Mu Sa. Khi các bạn tu tập như vậy, mật chú Mu A Mu Sa sẽ giúp các bạn tăng trưởng được năng lượng tự hữu vốn có trong thân, phối hợp với tha lực Phật điển của mười phương vào tâm, thân của các bạn, các bạn sẽ nhận rõ được điều đó.

Giờ đây, mời các bạn, chúng ta đặt bàn tay phải là bàn tay tượng trưng cho Trí Tuệ vào lòng bàn tay trái là bàn tay tượng trưng cho Từ Bi. Chúng ta hãy lấy Trí Tuệ và Từ Bi để chúng ta an trú trong hơi thở Chánh Niệm vi diệu âm Mu A Mu Sa.

Mời các bạn!

Chúng con nguyện mười phương Chư Phật ban rải tha lực Phật điển đại Từ đại Bi xuống muôn loài chúng sanh và gia trì Phật lực tiếp năng lượng Từ Bi khai mở Trí Tuệ để chúng con có thể chuyển hóa người thân trong gia đình hướng về và tin sâu vào Nhân Quả và Phật – Pháp – Tăng.

Hít vào bằng mũi, phình bụng, thở từ từ, hóp bụng vào, trì mật chú:

Mu A Mu Sa. (07 biến)

Mô Phật!

Các bạn thân mến! Chúng ta tu Pháp môn Thất Bảo Huyền Môn Thiền Mật song tu, trong Pháp môn này, chúng ta luôn luôn tin sâu vào Nhân Quả, Phật – Pháp – Tăng, lấy Chư Phật là Đức Thầy của chúng ta, nương vào sự tỉnh giác của Ngài khi quy y với Phật để chúng ta từ đó có cơ hội có một Bậc Minh Sư đi vào cuộc đời soi đường, dẫn lối cho chúng ta đi. Chúng ta lại tin sâu vào Pháp, là Chánh Pháp, là con đường Đức Thầy Bổn Sư dạy cho chúng ta để chúng ta đi từ vô minh tới giác ngộ, đi từ phiền não đến hạnh phúc, đi từ sự đau khổ đến bình an. Thầy Bổn Sư luôn luôn gần gũi với cuộc đời, quy y nương vào Ngài, quy y vào Pháp, nương vào lời dạy của Ngài, quy y vào Tăng, nương vào sự hòa hợp của Tăng thân, trưởng tử của Như Lai để dẫn đường cho chúng ta đi. Khi chúng ta có niềm tin vững chắc vào Phật – Pháp – Tăng, đó là bước đi vào con đường Thiền Mật song tu, Thất Bảo Huyền Môn.

Và chúng ta cần phải tin sâu vào Nhân Quả, từ đó chúng ta phát tâm giữ Năm Giới. Giới thứ nhất không sát sanh. Giới thứ hai không trộm cắp. Giới thứ ba không tà dâm. Giới thứ tư không nói dối. Giới thứ năm không uống và sử dụng các chất say gây nguy hại cho mọi người và ta. Năm Giới cấm này giúp cho chúng ta tự bảo hộ mình, giúp cho tâm thanh tịnh và Long Thần, Hộ Pháp, Chư Thiên sẽ cận kề chúng ta.

Các bạn thân mến! Khi chúng ta tu Thiền Mật song tu, Thất Bảo Huyền Môn hay các bạn đã bắt đầu đi vào con đường giáo pháp của Như Lai, mỗi người chúng ta tùy theo căn duyên mà ứng hợp với từng pháp phù hợp với chúng ta, nhân duyên của chúng ta và từ đó khi tu tập, ai trong chúng ta cũng tìm được hạnh phúc, bình an, sự tự tại. Khi mình thấy được sự lợi lạc của Pháp Chư Phật hợp với căn duyên và tu có kết quả, trong lòng của chúng ta, ai cũng cưu mang một lòng tha thiết rằng sự lợi lạc của ta do tu tập từ pháp môn đó, được nói, được bàn, được trao, được gửi và được hướng dẫn qua sự giới thiệu của chúng ta đối với những người yêu thương trong gia đình như cha mẹ, vợ chồng, con cái, như người thân. Nhưng ở trên đời, thật khó để hướng dẫn cho người thân, thật khó chuyển hóa người thân của chúng ta. Chúng ta có thể hướng dẫn người ngoài, chuyển hóa người ngoài nhưng người thân thật là khó. Tại sao nó khó? Câu hỏi này ai cũng hỏi mà mấy ai chịu chấp nhận lời giải thích của Chư Phật đâu.

Các bạn có nhớ không? Tất cả những ai làm Thầy cũng khó có thể hướng dẫn cho người trong gia đình. Đây là điều thật sự! Bởi theo Nhân Quả Đức Phật dạy, những người tái sanh trong cuộc đời này mang thân phận như những đấng, bậc sinh thành hoặc mang phận làm con cái, vợ chồng, thân bằng quyến thuộc đều là những người tới với nhau vì nợ, vì nhân duyên mắc nợ, nợ thuận duyên hay nợ nghịch duyên. Đôi khi, thậm chí còn là oan gia trái chủ nhiều đời tới với nhau hiện thân làm cha mẹ, làm con cái, làm thân bằng quyến thuộc. Khó lắm! Khó lắm!

Làm sao có thể truyền và chuyển hóa người thân mà người thân đó chính là oan gia trái chủ, chính là những người nợ ta, tìm kiếm trong kiếp này để đòi ta trả nợ? Khó không? – Khó!

Chúng ta không nhìn vào bản thân mình cũng đừng so sánh với những người khác mà lấy gương của chính Đức Phật để chúng ta tự hiểu rằng thật khó vô cùng.

Đức Phật trước khi đi tu, Ngài thật sự muốn đi tu và xuất gia nhưng vua cha Tịnh Phạn và tất cả thân tộc của Ngài từ trên xuống dưới, không ai mong muốn và không ai tạo điều kiện cho Ngài đi tu. Ai cũng ngăn cản, đóng kín cửa thành, giữ chặt thái tử Tất Đạt Đa ở trong kinh thành để thừa kế ngôi vị làm vua.

Ở trên đời này, mấy ai nghĩ đến sự giải thoát cho người khác đâu? Thường là nghĩ tới sự Có cho sự thỏa thích của bản thân trong dục lạc mà thôi. Thế nhưng vì tình yêu thương cao tột của Ngài đối với chúng sanh, Đức Phật đã từ ban đêm, thao thức nhiều ngày, nhiều tháng, nhiều năm, có đủ sức mạnh nội tâm, đã vượt ra khỏi cổng thành của kinh thành để tầm sư học đạo trở thành Bậc Giác Ngộ. Nhưng khi Ngài trở thành Bậc Giác Ngộ rồi, đâu phải Ngài có thể chuyển hóa được vua cha Tịnh Phạn đâu. Đâu phải Ngài có thể chuyển hóa được người thân trong gia đình như chú bác, anh em, bà con cô bác, con cái, vợ và mẹ nuôi của mình đâu (vì khi Phật sanh ra, mẹ của Ngài đã mất, chỉ còn dì nuôi mà thôi). Ngài có vợ và một con và khi thành Phật rồi, Ngài cũng mong ước rằng giáo lý của Ngài được khai thị và Ngài cũng mong rằng làm sao đó, chuyển hóa được người thân trong thân tộc của dòng họ Thích. Khó quá! Tuy nhiên nhờ năng lượng đại Từ đại Bi, tướng hảo của Ngài quá uy linh mà trong dòng tộc của họ Thích, nhiều thái tử, nhiều người đã đi theo Ngài để tu. Dĩ nhiên những vị đó tu theo Đức Phật có những mục đích khác nhau. Như ông A Nan hoặc là Đề Bà Đạt Đa, tất cả mọi thái tử đều có một mục đích khác biệt nhưng ít nhiều gì những mục đích riêng biệt đó, khi đi theo Đức Phật cũng được Ngài hướng dẫn, gieo duyên và trồng vào đó mầm Nhân Quả Thiện – Ác, giáo lý Tứ Diệu Đế để họ có thể vượt thoát màn vô minh mà tới sự tỉnh giác.

Các bạn mến yêu! Ngày nay, chúng ta thấy rồi, chuyển hóa người thân sao khó quá! Mình làm con, mình nói với cha mẹ khó lắm. Ngược lại, ngay cả khi cha mẹ nếu hướng dẫn cho con cái tuổi còn thơ thì có thể dễ đó, nhưng khi con cái đã trưởng thành, tới tuổi thanh niên hoặc vị thành niên, trung niên rồi thì khó lắm. Truyền thống Phật giáo lại không giáo dục con cái mình từ nhỏ vào giáo lý Nhân Quả của Phật giáo mà cứ để tự do, cho nên thông thường, người Phật tử chúng ta, nói chung được gọi là như vậy, mà ít có khi nào được học về Phật ngay từ thuở bé để có nền tảng vững chắc. Cho tới khi lớn rồi, ai đó trong gia đình thực tập, thấy tốt đẹp nên bắt đầu mới mơ ước con cái của nhà mình học, nhưng nó lớn rồi, nói không nghe.

Chúng ta hãy trở lại Đức Phật, khi Ngài giác ngộ, Ngài muốn mang giáo lý đó về để Ngài khai thị cho người ở kinh thành. Khi Ngài trở về nhà, vợ của Phật lại muốn con của mình, La Hầu La tới đòi kho tàng của Phật. Phật có hai kho tàng, kho tàng vật chất, ngôi vua cao quý và kho tàng trí tuệ do Bậc Giác Ngộ. Đức Phật đã nhận La Hầu La và trao cho con của mình kho tàng trí tuệ, nhưng Phật không thể dạy La Hầu La. Chúng ta nhớ, Phật mà còn không thể chuyển hóa và dạy La Hầu La ngay tức khắc. Phật đã khế cơ, khế lý, phương tiện và gửi gắm con của mình là La Hầu La cho ông Xá Lợi Phất để ông Xá Lợi Phất hướng dẫn cho La Hầu La. Chỉ lấy gương này thôi để chúng ta thấy rằng: “Tại sao chúng ta cứ mong muốn chuyển hóa người thân để làm gì?”. Phật chuyển hóa người thân nhưng phương tiện gửi gắm người thân cho ông Xá Lợi Phất, đó là đứa con của mình, đứa con duy nhất. Còn chúng ta, chúng ta học đạo, chúng ta chưa có khả năng chuyển hóa người thân đâu. Phật kia mà chưa đủ duyên cũng khó chuyển hóa, phải gửi cho Thầy Xá Lợi Phất dạy cho con, huống hồ chi tại sao ta cứ muốn chuyển hóa người thân mà không dùng phương tiện để hướng dẫn người thân tới những vị Thầy này, Thầy kia có nhân duyên phù hợp tương ưng để rồi khai thị cho người thân của chúng ta?

Chúng ta hãy nhớ rằng, nếu như ta có người thân như cha mẹ, vợ chồng, con cái, ta quan tâm và mong rằng họ cũng lãnh nhận được giáo pháp như chúng ta. Hãy tìm mọi phương tiện để giới thiệu người thân với những Bậc Thầy phù hợp với nhân duyên. Họ sẽ được hướng dẫn dễ dàng hơn là tự ta chuyển hóa người thân của chúng ta.

Nói như vậy không phải rằng ta không thể chuyển hóa người thân của mình được các bạn ơi! Ta chuyển hóa được! Chuyển hóa mà không chuyển hóa. Các bạn nhớ, Đức Phật đưa tay chỉ mặt trăng ám chỉ rằng ánh sáng của mặt trăng sáng, soi đường cho ta đi. Nhưng mặt trăng không chỉ cho chúng ta. Mặt trăng chỉ tỏa sáng để rồi ai đó nhìn thấy rõ đường, lựa chọn con đường mà đi. Do đó, mặt trăng không làm nhiệm vụ là phải chỉ đường nhưng chỉ làm sáng con đường trước mắt, sự tự do của mỗi người, đó chính là chân lý mà Đức Phật muốn đặt để cho chúng ta hiểu rằng sự tự do nơi mỗi một con người chúng sanh rất quan trọng, sự bình đẳng trong sự lựa chọn phải bằng trí tuệ nhận rõ con đường của mình đi. Đạo Phật là trí tuệ, như mặt trời chiếu sáng khắp miền dân gian để cho ai sống trong tăm tối của phiền não, tăm tối của đau khổ, tăm tối của lục dục, tăm tối của ái dục, Tham – Sân – Si khi có ánh sáng của mặt trời trí tuệ chiếu tỏ thì họ nhận ra con đường để tự đi ra. Vì thế, khi Đức Phật thành Phật rồi, Ngài tự thắp sáng đuốc tuệ giác ngộ của Ngài và nơi nào Ngài tới, Ngài không ép ai học, Ngài không dạy cho ai, không chỉ cho ai hết. Ngài chỉ khai thị. Chữ “khai thị” ở đây có nghĩa là chỉ tỏa sáng trong ánh giác minh, trong minh tuệ của Ngài để rồi ai đó trong lầm chấp thấy được mà theo ánh sáng đó, đi ra từ tối mà thôi.

Đúng vậy! Chính vì thế, 45 năm trời, ánh minh tuệ của Ngài soi tỏ khắp miền dân gian thuở đó ở Ấn Độ, biết bao nhiêu chúng sanh, biết bao nhiêu con người nương vào ánh sáng giác ngộ của Ngài mà đã tìm tới giáo lý để được sự giải thoát.

Nay chúng ta là những người con Phật, nếu như các bạn đã học một pháp môn nào phù hợp, thấy có sự an lạc, bình an, chuyển hóa được nghiệp thức của mình. Đã thấy có hạnh phúc rồi và sự phiền não không còn tồn tại mãi ở trong lòng khi nó tới, chúng ta muốn người thân cũng như vậy thì chúng ta không cần thiết là phải về nhà chỉ cho cha, cho mẹ, hướng dẫn cho vợ chồng, con cái. Các bạn nhớ, như mặt trăng chỉ cần tỏ sáng là được. Chúng ta sống đúng với ý nghĩa thắp sáng đuốc tuệ trong môi trường của gia đình. Hãy sống đúng với tinh thần Hiếu đạo, đúng với giáo lý Nhân Quả của Phật, mang Ái ngữ, mang hành động Từ Bi yêu thương, mang tư tưởng luôn luôn hướng Thượng áp dụng vào cuộc đời làm cha mẹ, áp dụng vào cuộc đời làm vợ chồng, con cái bởi vì khi các bạn có trí tuệ đó được thực hành rõ ràng trong đời sống, nếu các bạn làm cha mẹ thì ánh sáng trí tuệ của bạn như gương để con cái noi theo và học. Còn nếu như các bạn là con thì chính trí tuệ mà các bạn học được đó, sẽ soi tỏ trong gia đình để cho những đấng, bậc sinh thành qua sự trưởng thành bằng giáo lý của nhà Phật, sống an vui và hạnh phúc, sống Hiếu đạo và yêu thương, sống kính trọng và luôn luôn nghĩ đến mọi người đó, cha mẹ sẽ nhận ra giáo lý của Đức Phật nơi con cái đang thực hành mà từ đó sẽ noi theo để học hỏi. Chúng ta chỉ cần làm gương, như ngọn đèn thắp sáng và người trong bóng tối sẽ nương vào sự sáng đó mà thoát ra. Người trong bóng tối sẽ nương vào sự sáng đó để nhận rõ điều gì phải làm.

Chuyển hóa người thân không phải là dạy người thân, không phải là phải khai thị cho người thân, không phải là phải dẫn dắt người thân tới các Bậc Thầy này hoặc Bậc Thầy kia đâu. Mà là mỗi người chúng ta phải tự thắp sáng đuốc tuệ tại nơi tư gia của chúng ta, như ngọn đèn được bật sáng, mọi người đều thấy đường, lâu dần sẽ quen và lần theo ánh sáng của ngọn đèn đó mà làm việc. Chúng ta chính là ngọn đèn trong gia đình sống đúng với giáo lý của Chư Phật, chúng ta chính là ngọn đèn trong tư gia, thắp sáng trong cuộc đời để rồi tất cả những người trong gia đình sẽ nương vào ánh sáng đó mà thực tập giáo lý của nhà Phật. Cho nên, để chuyển hóa người thân thì phương pháp là chúng ta phải chuyển hóa tự thân.

Các bạn nghe kịp không? Để chuyển hóa người thân thì chúng ta phải chuyển hóa tự thân của chính mình. Chuyển hóa người thân tức là chuyển hóa tự thân. Thay vì dạy, khai thị cho người thân thì ta hãy sống với điều hiểu biết, đúng với tâm đạo và hành theo giáo lý Nhân Quả của Phật, thắp sáng tư gia của chúng ta, tất cả mọi người sống trong đó sẽ nhận và thấy, theo và học, không cần phải nói một lời bởi đó gọi là Thân giáo. Ta hành Pháp của Phật, ta tu Pháp của Phật và ta tỏ lộ sự lợi lạc của Pháp Phật trong đời sống của chúng ta thì nhất định những người trong gia đình sẽ nhận biết ra mà theo chúng ta. Cho nên, các bạn không cần phải tâm niệm rằng: “Làm sao chuyển hóa người thân bằng cách dạy, hướng dẫn cho họ?” mà hãy suy nghĩ, quán chiếu rằng phương pháp chuyển hóa người thân chính là các bạn phải chuyển hóa tự thân của các bạn cho khác, cho rõ. Khác là từ xấu thành tốt, khác là từ phiền não tới an vui, khác là từ đau khổ đến bình an, khác là từ bất hiếu thành hiếu hạnh, khác là từ người tạo nghiệp thành hết tạo nghiệp, khác là đứa con hoang đàng hay là những con người luôn luôn sống trong những năng lượng tiêu cực thì trở thành người sống đúng với giáo lý Nhân Quả và tràn đầy năng lượng tích cực, thanh tịnh trong từng lời nói, từng suy nghĩ, từng việc làm và hành động trong cuộc đời. Đây là điều rất quan trọng. Còn nếu như các bạn mong cầu chuyển hóa người thân mà chẳng chuyển hóa tự thân của mình để rồi thân của mình vẫn đắm chìm trong dục lạc, để rồi cuộc sống của mình vẫn sai trái, vẫn tội lỗi, vẫn yếu đuối thì các bạn mong cầu chuyển hóa người thân là chuyển hóa ở chỗ nào đây?

Chuyển hóa người thân tức là chuyển hóa tự thân của chúng ta. Bởi giữa ta và người thân luôn có sự liên kết chặt chẽ trong tình yêu của gia đình. Nếu như các bạn chuyển hoá được tự thân của mình sống đúng với đạo lý của Chư Phật dạy, sống đúng với Nhân Quả, tin sâu vào Phật – Pháp – Tăng và hành xử đúng nghĩa cử của cha mẹ hay người con trong gia đình hoặc tình nghĩa vợ chồng, đạo nghĩa. Như vậy thì nhất định, người thân của chúng ta nhìn đó mà đi theo.

Các bạn nhớ rằng, trong cuộc sống, khi chúng ta theo Phật rồi, chúng ta, mỗi người tự thắp đuốc lên mà đi, nương vào ánh đuốc trí tuệ của chúng ta mà những người thân sẽ nhìn rõ và đi theo.

Có một câu chuyện kể như vầy. Có một bà cụ sống trong một ngôi làng đó, bà cụ không biết làm gì hết. Bà cụ không biết làm một chuyện gì hết là bởi vì thuở nhỏ bà cụ được nuông chiều. Như một người được gia đình giàu sinh ra, cho nên bà cụ chẳng biết làm một cái gì. Vì sao? Vì tuổi thiếu thời như một công chúa, như một kiều nữ được nuôi dưỡng. Khi lập gia đình, chồng chết, con chết. Lúc sống thì chồng con lo cho, bây giờ chết hết rồi, bà không biết phải làm gì, bà khổ dữ lắm. Bà khổ vô cùng. Nhưng rất may, ở bên cạnh lại có một người hàng xóm, người đó lại tinh tấn và biết làm đủ thứ. Nhưng họ cách nhau một vách tường, chẳng thể qua là bởi vì thuở sinh thời lúc còn trẻ, họ khó có thể sống hoà hợp được với nhau. Khi bà cụ còn chồng, con thì chồng, con luôn cãi lộn với người hàng xóm đó. Để rồi khi chồng, con mất đi rồi, bà cụ không biết phải làm gì để nuôi thân. Mà người bên cạnh thì cũng mất hết, chỉ còn một mình, nhưng bức tường ngăn ngại do thuở còn sống sinh thời chồng, con chẳng hoà hợp. Bà ta bắt đầu kiệt sức bởi không biết phải làm gì và sắp chết. Trong cơn hấp hối đó, bà nhớ rằng: “À! Hoá ra sự ảnh hưởng của ta cho tới bây giờ không biết lo cho thân chính là trong môi trường gia đình, cha mẹ, chồng con ngày xưa đã không tạo điều kiện cho ta được ảnh hưởng bởi cuộc sống thật sự biết lo cho nên đến tuổi già chẳng biết phải lo gì”. Và bà ta than tiếng than não nề vang vọng qua bờ tường bên kia. Bên đó cũng có một bà cụ bạn ở một mình, nghe đến tiếng than, thương cảm nên vội vàng qua chăm sóc cho bà trong giây phút cuối. Và trong sự chăm sóc đó, bà cụ biết làm việc, biết chăm sóc cho tự thân mới kể cho bà cụ này rằng: “Từ tấm bé, cha mẹ đã dạy cho tôi phải biết tự lo cho bản thân, cho nên khi chồng, con và mọi người đã ra đi, cũng như bà mà thôi, tôi biết tự lo cho thân.”

Các bạn thân mến! Câu chuyện rất bình thường bởi vì nó có đấy trong cảnh sống của cuộc đời. Nhưng mang ý nghĩa đó để hiểu rằng: “Nếu ngay từ thuở nhỏ, ta không được hấp thụ một nền giáo dục tự lo cho bản thân, khi lớn rồi khó cưỡng lại số mệnh đã an định trong thói quen lâu năm, từ đó để phá vỡ một thói quen, tập tục đó thật là khó.” Bà cụ kia chỉ ngộ ra trong giây phút cuối cùng, lúc sắp chết mà thôi. Chúng ta đừng để điều đó xảy ra cho người thân chúng ta trong giây phút hấp hối, cuối cùng mới nhận ra giáo lý Nhân Quả mà tin vào Phật – Pháp – Tăng. Ngay trong giây phút này đây, khi chúng ta còn đang sống, chúng ta còn đang sống kề cận với đấng, bậc sinh thành hoặc vợ chồng, con cái, người thân, chúng ta hãy mang đời sống an lạc của Pháp Phật ta thực hành, ảnh hưởng tới những người sống gũi với chúng ta ngay. Còn nếu không, cái tốt, cái an lạc của ta không thể thắp sáng, ảnh hưởng tới người thân thì cái xấu sẽ ảnh hưởng tới họ.

Nhớ rằng, người thân trong gia đình của chúng ta đến với nhau là bởi vì duyên nợ, là bởi vì oan gia trái chủ nhiều đời, là bởi vì tìm nhau để trả nợ. Do đó, sự hấp dẫn, lực hấp dẫn từ nhau rất mạnh. Sự ảnh hưởng từ cha mẹ với con cái rất mạnh và sự ảnh hưởng của con cái đối với cha mẹ, con cháu với ông bà, với cha mẹ rất gần, rất mạnh, khó cưỡng. Cho nên, chúng ta thay vì lệ thuộc vào lực hấp dẫn của nghiệp chướng kéo dẫn những người thân trong gia đình là oan gia trái chủ tạo nghiệp thì chúng ta nương vào giáo pháp của Phật, mượn phương tiện hấp dẫn của lực oan gia đó, chúng ta chuyển toả ánh giác minh của Phật vào trong tâm thức của họ. Nhớ! Chúng ta là những người thật dễ ảnh hưởng đến người thân của chúng ta.

Nhớ về câu chuyện đó, khi vua Tịnh Phạn hấp hối gần chết, Đức Phật đã trở về khai thị cho vua Tịnh Phạn. Bởi cả cuộc đời vua Tịnh Phạn chỉ muốn Đức Phật ở nhà, đừng có tu để ngôi vua truyền trao lại cho. Thế nhưng, Phật đã đi và bỏ. Phút cuối trở về khai thị cho vua Tịnh Phạn thấy được một cuộc sống Vô Thường sanh – diệt, đừng nuối tiếc cái tôi, của cải, thế gian, buông bỏ tất cả. Chính trong sự khai thị Tứ Đại giả hợp, duyên tới duyên đi, vua Tịnh Phạn đã hiểu và từ bỏ một cách nhẹ nhàng rồi siêu thoát. Chúng ta cũng vậy!

Phật mà còn phải đợi tới phút cuối để khai thị cho vua cha. Nhưng đời sống của Đức Phật trong mấy mươi năm cũng ảnh hưởng đến vua cha. Để phút cuối khi nghe khai thị của Phật, vua cha đã đón nhận và được ra đi nhẹ nhàng. Chúng ta cũng vậy! Nếu như chưa có cơ hội để chuyển hóa người thân, hãy thắp sáng đuốc tuệ của mình. Hãy nhớ, người thân là cha, là mẹ, đấng, bậc sinh thành hay vợ chồng, con cái, anh, chị, em ruột, chú, bác đi nữa, thì luôn luôn có một lực hấp dẫn mạnh mẽ đối với nhau bởi oan gia trái chủ theo Thiện nghiệp hoặc Ác nghiệp, nợ cái thuận hoặc nợ cái nghịch mà thôi. Chúng ta hiểu được Nhân Quả đó, nương theo, hấp dẫn lẫn nhau bằng tâm thanh thịnh của Phật Pháp mà ta đã học, nhất định người thân sẽ được chuyển hóa một cách âm thầm.

Hãy tự thắp đuốc lên mà đi và hãy để ánh đuốc trí tuệ của mình sáng tỏ trong gia đình để người thân nhận ra điều đó, người thân sẽ tu, người thân sẽ học và người thân sẽ theo ta. Mà trước khi chuyển hóa người thân, các bạn hãy nhớ câu này: “Là hãy tinh tấn tu học để chuyển hóa tự thân của mình trước đã. Nếu các bạn chưa thể chuyển hóa bản thân của mình, tự thân của mình thì các bạn đừng mong cầu chuyển hóa người thân để làm gì”. Chân lý ngay chỗ đó. Đức Phật đã chuyển hóa để thành Phật rồi Ngài mới chuyển hóa người thân của Ngài, còn chúng ta chưa chuyển hóa được tự thân, chưa sống đúng với giáo lý của nhà Phật, chưa sống với giáo lý Nhân Quả Thiện – Ác, chưa sống với niềm tin vững chắc vào ba ngôi Tam Bảo, chưa sống với Giới hạnh là giữ Năm Giới, hành Mười Điều Thiện cho miên mật và tu cho rõ ràng thì mong cầu chi để chuyển hóa người thân hả các bạn?

Các bạn ơi! Chúng ta trồng một cây ra trái, ra quả, hái trái, quả, hoa đó dâng cho người thân, khi ăn vào họ sẽ thấy ngon và họ sẽ thích thú, sẽ trồng cây như chúng ta. Trồng cây Giới đức, trồng cây Giới hạnh một cách miên mật đến khi trổ bông, hoa sen khé nở, người thân sẽ nhìn thấy và tự động sẽ trồng một đóa sen cho riêng họ. Hãy sống như một búp sen vươn lên từ những lầm lỗi mà thật sự tỏa hương để người thân nhìn thấy sự thay đổi của chính tự thân mà người thân sẽ hòa nhập đi theo, gọi là “Hữu xạ tự nhiên hương.”

Đừng cần mua nước hoa, đừng cần mua dầu thơm ở đời để xịt lên người cho người thân hửi. Hãy sống với hương Giới hạnh, với hương Giới đức, với hương Tuệ, nhất định “Hữu xạ tự nhiên hương” hấp dẫn người thân đi theo giáo lý Nhân Quả của Đức Phật.

Mời các bạn đặt bàn tay Trí Tuệ là bàn tay phải vào lòng bàn tay trái là bàn tay Từ Bi. Chúng ta an trú trong vi diệu âm Chánh Niệm Mu A Mu Sa 07 biến và hồi hướng năng lượng Từ Bi cho người thân. Ngưỡng cầu rằng, qua Giới hương, Tuệ hương, Định hương của chúng ta, người thân sẽ noi gương và tin sâu Nhân Quả, Phật – Pháp – Tăng.

Mời các bạn!

Chúng con nguyện mười phương Chư Phật ban rải tha lực Phật điển đại Từ đại Bi xuống muôn loài chúng sanh và gia trì Phật lực, tiếp năng lượng Từ Bi, khai mở Trí Tuệ để chúng con thành tâm hồi hướng tha lực Phật điển đại Từ đại Bi đến tất cả những người thân và ngưỡng cầu rằng người thân tin sâu vào Nhân Quả Thiện – Ác và ba ngôi Tam Bảo: Phật – Pháp – Tăng.

Hít vào bằng mũi, phình bụng, thở từ từ, hóp bụng vào, trì mật chú:

Mu A Mu Sa. (07 biến)

Mô Phật!

Các bạn ơi! Bảo Thành hoan hỷ! Hoan hỷ thật sự, hoan hỷ quá trời luôn bởi vì khi tiếng Mu A Mu Sa cất lên hiệp nhất với thiên nhiên tự tại, các bạn có nghe thấy gì không?

Tiếng côn trùng. Tiếng côn trùng như một dàn giao hưởng ca tụng, tán dương Pháp nhiệm mầu trong sự thiên nhiên tự tại, yêu thương.

Các bạn thử lắng nghe đi! Một dàn giao hưởng từ hàng trăm ngàn những côn trùng ở trên cây trong rừng Thiền Chùa Xá Lợi, đang ca những khúc ca khải hoàn, tự tại, an nhiên cùng với đất trời, không có sự phân biệt. Tiếng ca của côn trùng hòa nhập với tiếng ca của Mu A Mu Sa, năng lượng vi tế, siêu thế Từ Bi của Chư Phật hòa nhập giữa Thiên – Địa – Nhân, giữa trời đất và con người, giữa côn trùng và vạn vật, tự tại và yêu thương.

Hôm nay, côn trùng ở trong Chùa nhảy mừng vì có những người như chúng ta đây, đang tu Pháp nhiệm mầu ở ngôi rừng này. Và trong cảnh rừng của Chùa đây, nơi Thiền tự thanh tịnh, côn trùng nhảy múa, ca hát, không khác gì như Chư Thiên ngày xưa, khi Đức Phật giảng đã tới rải hoa, đánh đàn tán tụng Chư Phật. Côn trùng đang tán tụng Đức Bổn Sư, Đức Thầy của chúng ta. Trong tha lực Phật điển tỏa khắp mười phương trời ảnh hưởng đến muôn người trong sự tự tại, côn trùng còn biết nhảy múa, ca hát, tán tụng, huống hồ chi là người thân của chúng ta. Nếu mỗi một người chúng ta an trú trong hơi thở Chánh Niệm và chúng ta nương vào đại Hùng đại Lực Từ Bi của Chư Phật để lan tỏa như “Hữu xạ tự nhiên hương” thì tất cả người thân của chúng ta sẽ bắt đầu như một dàn giao hưởng cộng tác cùng với chúng ta để hát lên những khúc nhạc ở trong tâm tư của họ, để trở về với định luật Nhân Quả của Phật, trở về với giáo lý của Đấng, Bậc Giác Ngộ.

Các bạn thân mến! Thấy chưa? Tiếng côn trùng còn đang ca thật lớn. Nó thấy Bảo Thành, Sư cô và các bạn tụng, trì hơi thở Chánh Niệm Mu A Mu Sa, chúng hát to quá. Chúng nghĩ rằng: “Năng lượng này tuyệt vời!” nên phải hát thật to để đồng nhịp với năng lượng đó. Y chang như vậy, nếu các bạn cứ tu miên mật giữa đất trời tại tư gia, giữa đất trời có cha có mẹ, có vợ chồng, con cái, có những người thân, hãy tự tại, thong dong ngồi giữa đất trời có đấng, bậc sinh thành, vợ chồng và con cái, thân bằng quyến thuộc, nhất định người thân của chúng ta khi nhận thấy sự chuyển hóa tự thân của mình sẽ hòa nhập vào với bài khải hoàn ca như côn trùng trong Chùa hòa nhập vào với Tăng thân, với các bạn. Họ cũng đang ca, cũng đang hát, họ cũng thừa hưởng được năng lực siêu thế, tình yêu của Phật ban rải xuống cho họ. Chúng ta y như thế mà làm. Đừng cưỡng cầu quá mức. Phật nói: “Phật không thể độ được người không có duyên”, còn chúng ta sẽ độ được người trong gia đình bằng cách chuyển hóa tự thân của mình. Vì sao? Vì chúng ta đã có duyên với đấng, bậc sinh thành, với chồng, với vợ, với con, với anh, chị, em rồi, dù là duyên nghịch hay duyên thuận cũng là duyên. Chỉ cần các bạn thắp sáng tự thân, chuyển hóa tự thân, đuốc tuệ bừng sáng, ánh minh tuệ chiếu soi, người thân trong gia đình thừa hưởng vào năng lượng yêu thương đó, sẽ tự chuyển hóa bản thân của họ.

Các bạn đặt tay Trí Tuệ vào lòng bàn tay Từ Bi. An trú trong Từ Bi và Trí Tuệ, vận hành 07 biến vi diệu âm Mu A Mu Sa, hòa nhập cùng với đất trời nghe muôn thú đều ca hát, tán tụng ba ngôi Tam Bảo và nương vào diệu lực siêu thế Từ Bi Mu A Mu Sa, chúng ta hồi hướng cho những người thân để họ nhìn, thấy, biết đi theo con đường Giác Ngộ của Chư Phật.

Chúng con nguyện mười phương Chư Phật ban rải tha lực Phật điển đại Từ đại Bi xuống muôn loài chúng sanh và gia trì Phật lực, tiếp năng lượng Từ Bi, khai mở Trí Tuệ để chúng con thành tâm hồi hướng năng lượng tha lực Phật điển siêu thế Từ Bi Mu A Mu Sa của Phật tới người thân để họ tin sâu vào Nhân Quả Thiện – Ác và ba ngôi Tam Bảo: Phật – Pháp – Tăng.

Hít vào bằng mũi, phình bụng, thở từ từ, hóp bụng vào, trì mật chú:

Mu A Mu Sa. (07 biến)

Mô Phật!

Chúng ta vừa xong 21 biến Thất Bảo Huyền Môn Mu A Mu Sa hồi hướng công đức cho muôn người.

Hồi hướng:

Mời các bạn chắp tay vào, chúng ta hòa cùng với Thánh chúng để hồi hướng cho muôn người.

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật! Mu A Mu Sa.

Chúng con nguyện mười phương Chư Phật, Bồ Tát, Thánh Hiền ban rải tha lực Phật điển đại Từ đại Bi tới muôn loài chúng sanh và nguyện cho chúng sanh đồng thành Phật đạo. Có phước báu nào ngày hôm nay, chúng con hồi hướng cho các nguyên thủ các quốc gia và người thân của chúng con đón nhận được năng lượng Từ Bi, ngồi lại với nhau trong sự hòa bình của thế giới bên ngoài và thế giới gia đình. Hồi hướng cho bác sĩ, y tá, y sĩ, nhân viên cứu trợ rộng lòng Từ Bi chữa lành muôn người. Hồi hướng cho các nhà khoa học gia ngành y, ngành dược chế tạo ra vaccine, thuốc chữa bệnh đại dịch. Hồi hướng cho những người đau khổ cũng như quê hương của chúng con hết ôn dịch, trở lại đời sống bình thường. Hồi hướng cho những vong linh vừa tử vong được siêu thoát. Xin Chư Phật Từ Bi chứng minh.

Share:

Facebook
Twitter
Pinterest
LinkedIn

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *

This site uses Akismet to reduce spam. Learn how your comment data is processed.

On Key

Related Posts